Chim Chào Mào: Phân loại/kiểu dáng – vùng miền, các nước trên thế giới



Hình ảnh
Hình ảnh

I. Mô tả và khái quát:



  Chim chào mào có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là chào mào.



  Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “Lanius”.



  Tại vùng châu Á, chúng có nhiều tên gọi khác. Cụ thể Turaha pigli-Pitta tại Telugu, bulbul Sipahi tại Bengali hay bulbul hoặc Kanera bulbu Phari trong tiếng Hinddi.









Trong tự nhiên, chào mào thường sinh sống trong các khu vực có nhiều cây cối, bụi rậm nhưng không phải là rừng rậm. Môi trường của chúng chính là những chảng cây hay rừng thưa, hầu như chúng xuất hiện vào một thời gian nào đó chưa xác định trong năm với một đàn lớn với rất nhiều cá thể. Với giọng hót đặc biệt, chúng rất dễ dàng xác định vị trí khi đậu trên một nhánh cây cao hoặc trên ngọn cây. Giọng hót được đánh giá là “dễ nghe” với tiếng hót được lập lại nhiều lần được miêu tả là Pettigrew-kick hoặc Pettigrew phiên dịch là “tôi muốn gặp mặt”. Đó là giọng hót thường được nghe, nhất là những buổi sáng sớm. Tuổi thọ trung bình được ghi nhận là 11 năm. 


Sinh sản, hành vi sinh thái:


Mùa sinh sản được bắt đầu từ tháng mười hai đến tháng năm ở miền nam Ấn Độ và từ tháng ba đến tháng mười ở miền bắc Ấn Độ. Có cặp có thể sinh sản 2 lần/năm. Những màn “ve vãn” của con trống là những hành vi như cúi đầu, đuôi nhâm nhấp và cánh rũ xuống. Tổ có hình dạng cốc và được xây dựng ở bụi cây, tường tranh hoặc trong những bụi cây nhỏ. Tổ được kết dính từ các nhánh cây chắc chắn với các thành phần của rể cây và cỏ và có thể được tạo thêm từ vỏ cây, giấy hay những mảng nilon. Mỗi ổ thường chứa từ 2-3 trứng có màu đất màu hoa cà nhạt với các đốm nâu. Trứng đo được là dài 21 mm và rộng 16 mm. Trứng mất 12 ngày để nở. Chim bố mẹ đều tham gia trong việc nuôi con. Chim non được bố mẹ đút sâu bướm và côn trùng được thay thế bằng trái cây và dâu khi chúng bắt đầu trưởng thành. Trứng và chim non là đối tượng thức ăn của giống chuột lang và quạ. Trong thời gian con non còn trong ổ, khi phát hiện có sự nguy hiểm, chim mái thường giả vờ bị thương hay giả chết để đánh lạc hướng kẻ thù.




Ổ chào mào


  Mỗi cặp khi vào mùa sinh sản, chúng sẽ bảo vệ ổ trong một diện tích khoảng 0,3 ha đến 0,75 ha. Thông thường, có đến hàng trăm con và thường ngủ trên một ngọn cây cao và thông thường, những nhánh cây này hay đong đưa.


  Việc sinh sản rất dễ dàng trong chuồng nuôi với điều kiện nuôi nhốt. Đặc biệt đã có sự ghi nhận phủ giống lai tạo giữa các loài trong họ hoành hoặch, đó là các loài Pycnonotus cafer, Pycnonotus leucotis, Pycnonotus xanthopygos, Pycnonotus melanicterus và Pycnonotus leucogenys với những cá thể có sắc tố bạch tạng (leucism). (sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch)


  Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á.




 Các phân loài:




Đây là điều làm người viết rất ngạc nhiên và bất ngờ khi biết loài chim chào mào này có đến 9 phân loài. Cả 9 phân loài đều tập trung tại châu Á và đều có hình dáng rất giống nhau. Nhưng sự phân biệt cho từng phân loài cụ thể dựa vào các yếu tố :


– Hình dạng của yếm,


– Độ đậm nhạt và độ dày mỏng của 2 miếng vá đen chạy từ vùng vai xuống bụng,


– Màu sắc phía trên lưng đen hay đen nâu,


– Mức độ bông trắng của phần lông đuôi và độ dài của phần trắng của lông đuôi ấy.


– Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).


– Kích thước hình thể to hay nhỏ – … 










Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:




Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758), được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.


Pycnonotus jocosus fuscicaudatus (Gould, 1866) phân bố tại bán đảo Ấn Độ, khu vực phía tây và trung tâm Ấn Độ. Phần yếm đã gần như hoàn chỉnh và phần màu trắng ở cuống họng (cổ) rõ ràng, không có màu trắng nằm cuối cùng ở lông đuôi. (dể hiểu hơn là đuôi không có bông trắng).


Pycnonotus jocosus abuensis (Whistler, 1931) – Tây Bắc Ấn Độ (phía tây tỉnh Rajasthan, bắc Maharashtra, nhưng vắng mặt tại nhiều khu vực khô hạn). Có yếm đen nhạt màu, trông có vẻ như bị đứt từng đoạn và đuôi cũng không có bông trắng.


Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.


Pycnonotus jocosus emeria (Linnaeus, 1758) – Phía đông Ấn Độ (vùng phía nam đồng bằng sông Hằng đến Rameswaram, ở Tamil Nadu), Bangladesh, phía bắc, tây và nam Myanmar (bao gồm cả Arakan Hills) và cả miền tây nam Thái Lan. Có màu nâu đậm trên lưng, yếm đen mỏng và thanh mảnh, mũ kim – Đây là loài đã được du nhập vào Florida trong khoảng năm 1960 – 1971.


Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.


Pycnonotus jocosus monticola (Horsfield, 1840) – phân bố phía đông dãy Himalaya ở Đông Bắc Ấn Độ và Tây Tạng, phía đông, phía nam và đông bắc Myanmar và Trung Quốc (khu vực phía tây và nam ở Vân Nam). Có màu trắng ở bụng tối và trông có vẻ “bẩn” hơn.


Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.


Pycnonotus jocosus hainanensis (Hachisuka, 1939) – phân bố tại bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (khu vực nam Quảng Đông, bao gồm cả Nao Chow Tao).





Là một phân loài có tên là Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận.




Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài:







Chào mào (Park-
ssp jocosus
) Hong Kong 







Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)




 Giới tính:




Nhìn hình dáng bên ngoài của đôi chim, thật khó đoán biết được con nào là trống và mái. Chim chào mào không có hình thái bên ngoài đặc biệt để phân biệt sự khác nhau của giới tính. Người ta hay sử dụng các phương pháp so sánh dưới đây để xác định giới tính, nhưng tất cả các kinh nghiệm dưới đây đều tỏ ra chưa chính xác tuyệt đối:




Kích thước.


Chiều dài của lông đỏ ở má.


Chiều dài của lông cánh.


Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:




Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.


Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.


Lý do chưa chính xác tuyệt đối bởi vì, chúng sẽ phát triển hình thái lưỡng tính nếu như so chúng cùng chung một độ tuổi, những con còn non hoặc chưa đến độ tuổi trưởng thành có thể bị lầm lẫn theo cách so sánh này.




Bạn hãy nhìn thật kỹ ảnh con trống dưới đây, bạn sẽ thấy những sợi lông đỏ trên má dài hơn.












 Giới tính:




Nhìn hình dáng bên ngoài của đôi chim, thật khó đoán biết được con nào là trống và mái. Chim chào mào không có hình thái bên ngoài đặc biệt để phân biệt sự khác nhau của giới tính. Người ta hay sử dụng các phương pháp so sánh dưới đây để xác định giới tính, nhưng tất cả các kinh nghiệm dưới đây đều tỏ ra chưa chính xác tuyệt đối:




Kích thước.


Chiều dài của lông đỏ ở má.


Chiều dài của lông cánh.


Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:




Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.


Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.


Lý do chưa chính xác tuyệt đối bởi vì, chúng sẽ phát triển hình thái lưỡng tính nếu như so chúng cùng chung một độ tuổi, những con còn non hoặc chưa đến độ tuổi trưởng thành có thể bị lầm lẫn theo cách so sánh này.




Bạn hãy nhìn thật kỹ ảnh con trống dưới đây, bạn sẽ thấy những sợi lông đỏ trên má dài hơn.


Độ tuổi của chào mào, được xác định phần lông cánh và chú ý bên ngoài rìa cánh. Dĩ nhiên các con non, chim tơ hay còn gọi là má trắng luôn có phần rìa cánh “mơn mởn” còn các con có tuổi, ở các rìa cánh thường trông như “bị khô” xơ xác. Mặc dù, chúng là loài thay lông hàng năm nhưng đối với con trưởng thành, sự “xơ xác” của phần lông cánh ấy chính là hoạt động của cánh khi bay và lông cánh bị ma sát vào không khí như ảnh minh họa dưới đây.chứng, rất mong anh chị em “đi khảo sát thực tế” với các loại trái cây như: cà chua, trứng cá, dâu tằm, dâu tây … để đánh giá kết quả. Thân. 












 Tính phổ thông của chim Chào mào trên các khu vực thế giới:




Hiện nay, chim chào mào rất phổ biến trên toàn thế giới. So với một số giống chim khác, chim chào mào khi thuần rất “ấn tượng” với người chủ nuôi, giọng hót lại hay, hình thể chim đẹp và nổi bật chóp mào đen. Khi chim căng có thể hót cả ngày. Khi hót lại bung cánh, nhảy cầu đẹp. Ai nhìn mà chả thích lại muốn sở hữu cho riêng mình?







ó được phổ biến gần như toàn thế giới. Ở Pháp tên gọi là Bulbul orphee, ở Đức gọi chúng là Rotohrbulbul, ở Tây Ban Nha gọi là Bulbul Orfeo, tên gọi chung bằng tiếng Anh là red-whiskered bulbul. Theo đó, chữ bulbul còn có thể hiểu là Hoành hoạch bởi bulbul là tên gọi chung của họ này. (Có khoảng 140 loại)






Nó được nhìn thấy lần đầu tiên ở Oahu vào khoảng năm 1960 – 1965 và nay là loài được phổ biến tại đây. Vào mùa thu năm 1965 lần đầu tiên được John Kjargaard nhìn thấy một đôi chim chào mào dưới mái nhà ông nhưng đến năm 1968 mới ghi nhận báo cáo. Năm 1968 ghi nhận thêm sự xuất hiện loài chim này bởi Mary Roberts trong khu vườn nhà mình, Coelho Way cũng vào năm đó xác nhận chim chào mào thường xuất hiện vào cuối năm và ăn các loại trái cây. Trong năm đó vào mùa giáng sinh, những du khách xác nhận đã nhìn thấy 4 con chào mào tại đây, đánh dấu sự xuất hiện của chúng tại Hawaii và Honolulu và xác nhận có hai con còn non, chưa trưởng thành, đánh giấu sự thích nghi môi trường mới tại Hawaii và Honolulu của chim Chào mào. “(Hawaii Audubon Society, 1968).






Từ Oahu, chim chào mào được mang sang khu vực Bắc Mỹ (miền nam Florida và Hawaii) qua đường nhập khẩu trái phép và được xác định nguồn gốc ở Nam Á, có phạm vi từ Ấn Độ đến miền nam Trung Quốc. Vì là động vật nhập khẩu trái phép nên chúng được cất giấu tại khu vực của khu du lịch Kendall của Dade County. Trong năm 1960, có khoảng 5 – 10 con chào mào đã trốn thoát khỏi lồng từ một trại chim hiếm ở Miami để rồi chúng tự lập bầy tại một khu vực ngoại thành ở rìa phía nam của Miami, Florida. Trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến khoảng năm 1969/1970 số lượng đã tăng đến 250 cá thể. Năm 1971, nhà nghiên cứu loài Carlton đã tính công thức phát triển của giống chim này hàng năm theo tỉ lệ tăng dân số từ 30 – 40%. Năm 1975, một cơn bão có tên gọi quốc tế là Donna đã phá hủy hệ thống chuồng trại tại đây và một số cá thể khác tiếp tục gia nhập vào bầy trước đó, tạo thành một “lãnh địa” mở rộng của riêng mình từ phía đông bắc đến Nam Miami nhưng vẫn còn giới hạn trong một vài khu vực địa lý nhỏ (Florida BBA). Với khí hậu và địa lý môi trường đông nam Florida cũng tương tự như quê hương của chúng là Ấn Độ nên chúng dễ dàng thích nghi với môi trường mới này, đánh dấu sự có mặt của chim chào mào tại Mỹ.





Tại Sysney – Úc, năm 1880 Hiệp hội động vật học đã giới thiệu chim chào mào là loài chim có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cũng từ một vài cá thể đã trốn thoát, đến năm 1920, chúng được ghi nhận là phân bố khắp các khu vực ngoại ô ở Sysney và tiếp tục lấn thêm hơn 100km. Hiện nay, chúng cũng được tìm thấy ở ngoại ô Melbourne và Adelaide. 





  Chào mào nói chung rất siêng hót, những cụm từ ngắn như tiếng huýt gió “witiwet”, giọng trong trẻo, to nhưng nghe khá “ấm áp”.



   Chim chào mào có tập tính định cư, thường tập trung ở các khu vực có bụi rậm và có các cây to chết khô, hoặc gần các khu vực do con người canh tác, các khu vườn ở ngoại ô thành phố. 





Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.

Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.

Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.

Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Hệ thống học

Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này[1]. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:

So sánh các chuỗi mtDNA cytochrome b phát hiện ra rằng 5 loài của chi Phyllastrephus không thuộc về nhóm chào mào, mà thuộc về nhóm kỳ dị chứa các loài chim biết hót ở Madagascar[2]. Xem thông tin dưới đây để biết thêm về 5 loài này. Tương tự, phân tích chuỗi các gen nDNA RAG1 và RAG2 cho thấy chi Nicator cũng không là chào mào [3]. Nghiên cứu của Pasquet và ctv. (2001)[4] chứng minh rằng sắp xếp trước đây thất bại trong việc tính toán tới địa sinh học. Nhóm này chứng minh rằng chi Criniger phải chia thành các dòng dõi châu Phi và châu Á (Alophoixus). Sử dụng phân tích 1 chuỗi nDNA và 2 chuỗi mtDNA, Moyle & Marks (2006)[5] phát hiện thấy một dòng dõi chủ yếu ở châu Á và một nhóm các loài greenbul và chim mỏ cứng ở châu Phi; Greenbul vàng kim dường như rất khác biệt và tạo thành nhóm của chính nó. Một vài đơn vị phân loại không là đơn ngành, và các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để xác định các mối quan hệ giữa các chi lớn.
Chào mào điển hình
Chi Pycnonotus (cận ngành)

* Chào mào châu Á “cổ đại”
* Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps[6]
* Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni[6]
* Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus[6]
* Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous[6]
* Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
* Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
* Pycnonotus đích thực
* Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus[6]
* Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
* Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos[6]
* Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
* Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
* Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
* Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier[6]
* Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
* Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
# Tranh cãi
# Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
# Không gán
# Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus[6]
# Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
# Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
# Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
# Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
# Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
# Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis[6]
# Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
# Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
# Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
# Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer[6]
# Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster[6]
# Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
# Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
# Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
# Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
# Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
# Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens[6]
# Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
# Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi[6]
# Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
* Chi Spizixos
o Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons[6]
o Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques[6]

* Chi Tricholestes
o Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger

* Chi Setornis
o Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger

* Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
o Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
o Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
o Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus[6]
o Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus[6]
o Cành cạch má xám, Alophoixus bres
o Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
o Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis

* Chi Iole
o Cành cạch ô liu, Iole virescens
o Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua[6]
o Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
o Cành cạch trán vàng, Iole indica

* Chi Hemixos
o Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala[6]
o Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus[6]


* Chi Ixos (cận ngành)
o Gần với Hemixos
o Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis[6]
o Không gán
o Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
o Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
o Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
o Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
o Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii[6]
o Cành cạch Sunda, Ixos virescens

* Chi Microscelis
o Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)

* Chi Hypsipetes
o Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
o Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
o Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus[6]
o Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
o Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
o Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
o Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
o Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
o Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni

Greenbul điển hình và đồng minh

* Chi Phyllastrephus (19 loài)
* Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
* Chi Criniger (5 loài)
* Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
* Chi Chlorocichla (6 loài)
* Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
* Chi Baeopogon (2 loài)
* Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Incertae sedis

* Chi Neolestes
o Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus

Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
[sửa] Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Hiện nay trong chích Malagasy

* Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
o Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis

* Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
o Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
o Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
o Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
o Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps

Incertae sedis

* Chi Nicator
o Nicator đốm vàng, Nicator chloris
o Nicator miền đông, Nicator gularis
o Nicator họng vàng, Nicator vireo

nguồn ( Wikipedia.org )

This image has been resized.Click to view original image


Chào mào vàng đầu đen



Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.

Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
This image has been resized.Click to view original image


Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous



# Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus

# Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
This image has been resized.Click to view original image


# Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus



# Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus



Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier



# Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans



# Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
This image has been resized.Click to view original image
Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus


# Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus

# Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
This image has been resized.Click to view original image


# Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus



# Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus



Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis

Chào mào Cape, Pycnonotus capensis
This image has been resized.Click to view original image


# Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos



# Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis

Bạn thấy bài viết hữu ích thì đánh giá cho chaomao.info nhé