Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có.
Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi.
Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí.
I. Mô tả và khái quát:
Chim chào mào có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là chào mào
Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “Lanius”.
Tại vùng châu Á, chúng có nhiều tên gọi khác. Cụ thể Turaha pigli-Pitta tại Telugu, bulbul Sipahi tại Bengali hay bulbul hoặc Kanera bulbu Phari trong tiếng Hinddi.
Trong tự nhiên, chào mào thường sinh sống trong các khu vực có nhiều cây cối, bụi rậm nhưng không phải là rừng rậm. Môi trường của chúng chính là những chảng cây hay rừng thưa, hầu như chúng xuất hiện vào một thời gian nào đó chưa xác định trong năm với một đàn lớn với rất nhiều cá thể. Với giọng hót đặc biệt, chúng rất dễ dàng xác định vị trí khi đậu trên một nhánh cây cao hoặc trên ngọn cây. Giọng hót được đánh giá là “dễ nghe” với tiếng hót được lập lại nhiều lần được miêu tả là Pettigrew-kick hoặc Pettigrew phiên dịch là “tôi muốn gặp mặt”. Đó là giọng hót thường được nghe, nhất là những buổi sáng sớm. Tuổi thọ trung bình được ghi nhận là 11 năm.
II. Sinh sản, hành vi sinh thái:
Mùa sinh sản được bắt đầu từ tháng mười hai đến tháng năm ở miền nam Ấn Độ và từ tháng ba đến tháng mười ở miền bắc Ấn Độ. Có cặp có thể sinh sản 2 lần/năm. Những màn “ve vãn” của con trống là những hành vi như cúi đầu, đuôi nhâm nhấp và cánh rũ xuống. Tổ có hình dạng cốc và được xây dựng ở bụi cây, tường tranh hoặc trong những bụi cây nhỏ. Tổ được kết dính từ các nhánh cây chắc chắn với các thành phần của rể cây và cỏ và có thể được tạo thêm từ vỏ cây, giấy hay những mảng nilon. Mỗi ổ thường chứa từ 2-3 trứng có màu đất màu hoa cà nhạt với các đốm nâu. Trứng đo được là dài 21 mm và rộng 16 mm. Trứng mất 12 ngày để nở. Chim bố mẹ đều tham gia trong việc nuôi con. Chim non được bố mẹ đút sâu bướm và côn trùng được thay thế bằng trái cây và dâu khi chúng bắt đầu trưởng thành. Trứng và Chim non là đối tượng thức ăn của giống chuột lang và quạ. Trong thời gian con non còn trong ổ, khi phát hiện có sự nguy hiểm, chim mái thường giả vờ bị thương hay giả chết để đánh lạc hướng kẻ thù.
Mỗi cặp khi vào mùa sinh sản, chúng sẽ bảo vệ ổ trong một diện tích khoảng 0,3 ha đến 0,75 ha. Thông thường, có đến hàng trăm con và thường ngủ trên một ngọn cây cao và thông thường, những nhánh cây này hay đong đưa.
Việc sinh sản rất dễ dàng trong chuồng nuôi với điều kiện nuôi nhốt. Đặc biệt đã có sự ghi nhận phủ giống lai tạo giữa các loài trong họ hoành hoặch, đó là các loài Pycnonotus cafer, Pycnonotus leucotis, Pycnonotus xanthopygos, Pycnonotus melanicterus và Pycnonotus leucogenys với những cá thể có sắc tố bạch tạng (leucism). (sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch)
Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á.
III. Các phân loài:
Đây là điều làm người viết rất ngạc nhiên và bất ngờ khi biết loài chim chào mào này có đến 9 phân loài. Cả 9 phân loài đều tập trung tại châu Á và đều có hình dáng rất giống nhau. Nhưng sự phân biệt cho từng phân loài cụ thể dựa vào các yếu tố :
– Hình dạng của yếm,
– Độ đậm nhạt và độ dày mỏng của 2 miếng vá đen chạy từ vùng vai xuống bụng,
– Màu sắc phía trên lưng đen hay đen nâu,
– Mức độ bông trắng của phần lông đuôi và độ dài của phần trắng của lông đuôi ấy.
– Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).
– Kích thước hình thể to hay nhỏ
– …
Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:
- Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758), được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.
- Pycnonotus jocosus fuscicaudatus (Gould, 1866) phân bố tại bán đảo Ấn Độ, khu vực phía tây và trung tâm Ấn Độ. Phần yếm đã gần như hoàn chỉnh và phần màu trắng ở cuống họng (cổ) rõ ràng, không có màu trắng nằm cuối cùng ở lông đuôi. (dể hiểu hơn là đuôi không có bông trắng).
- Pycnonotus jocosus abuensis (Whistler, 1931) – Tây Bắc Ấn Độ (phía tây tỉnh Rajasthan, bắc Maharashtra, nhưng vắng mặt tại nhiều khu vực khô hạn). Có yếm đen nhạt màu, trông có vẻ như bị đứt từng đoạn và đuôi cũng không có bông trắng.
- Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.
- Pycnonotus jocosus emeria (Linnaeus, 1758) – Phía đông Ấn Độ (vùng phía nam đồng bằng sông Hằng đến Rameswaram, ở Tamil Nadu), Bangladesh, phía bắc, tây và nam Myanmar (bao gồm cả Arakan Hills) và cả miền tây nam Thái Lan. Có màu nâu đậm trên lưng, yếm đen mỏng và thanh mảnh, mũ kim – Đây là loài đã được du nhập vào Florida trong khoảng năm 1960 – 1971.
- Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.
- Pycnonotus jocosus monticola (Horsfield, 1840) – phân bố phía đông dãy Himalaya ở Đông Bắc Ấn Độ và Tây Tạng, phía đông, phía nam và đông bắc Myanmar và Trung Quốc (khu vực phía tây và nam ở Vân Nam). Có màu trắng ở bụng tối và trông có vẻ “bẩn” hơn.
- Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.
- Pycnonotus jocosus hainanensis (Hachisuka, 1939) – phân bố tại bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (khu vực nam Quảng Đông, bao gồm cả Nao Chow Tao).
Và một phân loài có tên là Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận.
Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài:
Park Hong Kong, Hong Kong (ssp jocosus)
Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)
Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp Pattani)
IV. Giới tính:
Nhìn hình dáng bên ngoài của đôi chim, thật khó đoán biết được con nào là trống và mái. Chim chào mào không có hình thái bên ngoài đặc biệt để phân biệt sự khác nhau của giới tính. Người ta hay sử dụng các phương pháp so sánh dưới đây để xác định giới tính, nhưng tất cả các kinh nghiệm dưới đây đều tỏ ra chưa chính xác tuyệt đối:
- Kích thước.
- Chiều dài của lông đỏ ở má.
- Chiều dài của lông cánh.
Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:
- Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.
- Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.
Lý do chưa chính xác tuyệt đối bởi vì, chúng sẽ phát triển hình thái lưỡng tính nếu như so chúng cùng chung một độ tuổi, những con còn non hoặc chưa đến độ tuổi trưởng thành có thể bị lầm lẫn theo cách so sánh này.
Bạn hãy nhìn thật kỹ ảnh con trống dưới đây, bạn sẽ thấy những sợi lông đỏ trên má dài hơn.
Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim chào mào (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.
Độ tuổi của chào mào, được xác định phần lông cánh và chú ý bên ngoài rìa cánh. Dĩ nhiên các con non, chim tơ hay còn gọi là má trắng luôn có phần rìa cánh “mơn mởn” còn các con có tuổi, ở các rìa cánh thường trông như “bị khô” xơ xác. Mặc dù, chúng là loài thay lông hàng năm nhưng đối với con trưởng thành, sự “xơ xác” của phần lông cánh ấy chính là hoạt động của cánh khi bay và lông cánh bị ma sát vào không khí như ảnh minh họa dưới đây.
V. Chế độ ăn uống:
Chế độ ăn uống của chim chào mào được điều tra trong mùa sinh sản của chúng vào khoảng tháng 2 đến tháng 6 qua phương pháp phân tích các chất có trong phân trong một công trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu sự phân tán các giống cây trồng tại Vườn quốc gia ở Mauritius. Công trình nghiên cứu tính chất phân tán các giống cây/hạt cây được nghiên cứu trong nhiều năm của Simberloff & Von Holle năm 1999, Mack năm 2000, Mandon Dalger vào năm 2004, Traveset & Richardson 2006 cùng các đồng nghiệp đều cho thấy kết quả như sau:
99% nguồn thức ăn chính thì trong đó đến 92,4% là các loại quả có hạt và chỉ có 7,4% là thực phẩm có nguồn gốc từ động vật. Phần còn lại chưa xác định được thành phần cũng là loài thực phẩm nằm trong các hạt giống có nguồn gốc từ các giống cây cỏ nhưng chưa có tên.
Thành phần thực phẩm có gốc từ các loại quả mà chim chào mào sử dụng nhiều nhất là:
- Ficus reflexa (họ dâu): 26,7 %
- Ligustrum robustum (râm vối): 35,5 %
- Ossaea marginata: 25,3 %
- Wikstroemia indica: 23,8 %
Thành phần thực phẩm có gốc từ động vật mà chim chào màosử dụng nhiều nhất là Hymenoptera (côn trùng): 5,9%.
Điều rất ngạc nhiên là chế độ ăn uống của chào mào rất linh hoạt, đặc biệt là các quả chín trên cây có màu đỏ và mọng nước và thải ra các hạt giống gần như nguyên vẹn. Trong đó, có một số hạt giống (chẳng hạn như L. robustum và C. robustum) rất cần chất men có trong chất nhầy được tiết ra trong quá trình hấp thụ của ruột để nảy mầm. Quả là tuyệt vời, các nhà khoa học đang tìm kiếm “kẻ phân tán” các giống cây/cỏ nhằm tái tạo hệ sinh thái khí quyển đang mất dần và chào mào là ứng cử viên trong top ten!
Như vậy, khi chim còn non cần sự phát triển, chim bố mẹ thường sử dụng thức ăn có gốc động vật như kiến, sâu bướm và một số loài ong có nhiều chất đạm (protein) để phát triển. Đến khi trưởng thành, chim có huynh hướng chuyển sang thực phẩm có nguồn gốc thực vật, đặc biệt các loại quả chín mọng và có sắc tố đỏ.
Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!
P/s: trung-apolo rất ngạc nhiên khi nắm bắt thông tin này dựa vào trang //plant-animal.org dù trước đó, cũng có khái niệm cung cấp thêm chất tôm trong cám để cho chim có màu đỏ như tự nhiên. Nhưng thực sự, tôm không liên quan đến sắc tố đỏ trên cơ thể chào mào vì cơ chế ruột không hấp thụ được chất protein này. (Màu đỏ của đít, tách đỏ của chim chào mào được quyết định từ khoáng vi lượng chứ không phải là chất đạm). Thông tin mới được phát hiện và chưa kiểm chứng, rất mong anh chị em “đi khảo sát thực tế” với các loại trái cây như: cà chua, trứng cá, dâu tằm, dâu tây … để đánh giá kết quả.
Thân.
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.
Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Hệ thống học
Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này[1]. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:
So sánh các chuỗi mtDNA cytochrome b phát hiện ra rằng 5 loài của chi Phyllastrephus không thuộc về nhóm chào mào, mà thuộc về nhóm kỳ dị chứa các loài chim biết hót ở Madagascar[2]. Xem thông tin dưới đây để biết thêm về 5 loài này. Tương tự, phân tích chuỗi các gen nDNA RAG1 và RAG2 cho thấy chi Nicator cũng không là chào mào [3]. Nghiên cứu của Pasquet và ctv. (2001)[4] chứng minh rằng sắp xếp trước đây thất bại trong việc tính toán tới địa sinh học. Nhóm này chứng minh rằng chi Criniger phải chia thành các dòng dõi châu Phi và châu Á (Alophoixus). Sử dụng phân tích 1 chuỗi nDNA và 2 chuỗi mtDNA, Moyle & Marks (2006)[5] phát hiện thấy một dòng dõi chủ yếu ở châu Á và một nhóm các loài greenbul và chim mỏ cứng ở châu Phi; Greenbul vàng kim dường như rất khác biệt và tạo thành nhóm của chính nó. Một vài đơn vị phân loại không là đơn ngành, và các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để xác định các mối quan hệ giữa các chi lớn.
Chào mào điển hình
Chi Pycnonotus (cận ngành)
* Chào mào châu Á “cổ đại”
* Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps[6]
* Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni[6]
* Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus[6]
* Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous[6]
* Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
* Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
* Pycnonotus đích thực
* Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus[6]
* Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
* Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos[6]
* Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
* Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
* Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
* Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier[6]
* Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
* Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
# Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
# Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus[6]
# Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
# Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
# Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
# Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
# Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
# Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis[6]
# Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
# Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
# Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
# Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer[6]
# Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster[6]
# Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
# Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
# Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
# Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
# Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
# Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens[6]
# Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
# Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi[6]
# Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
* Chi Spizixos
o Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons[6]
o Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques[6]
* Chi Tricholestes
o Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger
* Chi Setornis
o Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
* Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
o Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
o Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
o Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus[6]
o Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus[6]
o Cành cạch má xám, Alophoixus bres
o Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
o Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis
* Chi Iole
o Cành cạch ô liu, Iole virescens
o Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua[6]
o Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
o Cành cạch trán vàng, Iole indica
* Chi Hemixos
o Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala[6]
o Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus[6]
* Chi Ixos (cận ngành)
o Gần với Hemixos
o Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis[6]
o Không gán
o Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
o Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
o Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
o Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
o Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii[6]
o Cành cạch Sunda, Ixos virescens
* Chi Microscelis
o Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
* Chi Hypsipetes
o Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
o Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
o Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus[6]
o Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
o Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
o Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
o Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
o Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
o Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni
Greenbul điển hình và đồng minh
* Chi Phyllastrephus (19 loài)
* Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
* Chi Criniger (5 loài)
* Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
* Chi Chlorocichla (6 loài)
* Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
* Chi Baeopogon (2 loài)
* Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Incertae sedis
* Chi Neolestes
o Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus
Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
[sửa] Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Hiện nay trong chích Malagasy
* Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
o Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis
* Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
o Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
o Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
o Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
o Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps
Incertae sedis
* Chi Nicator
o Nicator đốm vàng, Nicator chloris
o Nicator miền đông, Nicator gularis
o Nicator họng vàng, Nicator vireoCành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.
Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:
So sánh các chuỗi mtDNA cytochrome b phát hiện ra rằng 5 loài của chi Phyllastrephus không thuộc về nhóm chào mào, mà thuộc về nhóm kỳ dị chứa các loài chim biết hót ở Madagascar. Xem thông tin dưới đây để biết thêm về 5 loài này. Tương tự, phân tích chuỗi các gen nDNA RAG1 và RAG2 cho thấy chi Nicator cũng không là chào mào. Nghiên cứu của Pasquet và ctv. (2001) chứng minh rằng sắp xếp trước đây thất bại trong việc tính toán tới địa sinh học. Nhóm này chứng minh rằng chi Criniger phải chia thành các dòng dõi châu Phi và châu Á (Alophoixus). Sử dụng phân tích 1 chuỗi nDNA và 2 chuỗi mtDNA, Moyle & Marks (2006) phát hiện thấy một dòng dõi chủ yếu ở châu Á và một nhóm các loài greenbul và chim mỏ cứng ở châu Phi; Greenbul vàng kim dường như rất khác biệt và tạo thành nhóm của chính nó. Một vài đơn vị phân loại không là đơn ngành, và các nghiên cứu tiếp theo là cần thiết để xác định các mối quan hệ giữa các chi lớn.
Danh sách hệ thống hóa
Chi Calyptocichla
Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina
Chào mào điển hình
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Chi Pycnonotus (cận ngành)
Chào mào châu Á “cổ đại”
Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
Pycnonotus đích thực
Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos
Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier
Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Tranh cãi
Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
Không gán
Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus
Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis
Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer
Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster
Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens
Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi
Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Chi Spizixos
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Chi Tricholestes
Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger
Chi Setornis
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus
Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus
Cành cạch má xám, Alophoixus bres
Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis
Chi Iole
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua
Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
Cành cạch trán vàng, Iole indica
Chi Hemixos
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus
Chi Ixos (cận ngành)
Gần với Hemixos
Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis
Không gán
Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii
Cành cạch Sunda, Ixos virescens
Chi Microscelis
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Chi Hypsipetes
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus
Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni
Greenbul điển hình và đồng minh
Chi Phyllastrephus (19 loài)
Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
Chi Criniger (5 loài)
Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
Chi Chlorocichla (6 loài)
Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
Chi Baeopogon (2 loài)
Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Incertae sedis
Chi Neolestes
Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus
Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.
Hiện nay trong chích Malagasy
Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis
Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps
Incertae sedis
Chi Nicator
Nicator đốm vàng, Nicator chloris
Nicator miền đông, Nicator gularis
Nicator họng vàng, Nicator vireoChào mào vàng đầu đenChào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoniBông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhousChào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus Bạn thấy bài viết hữu ích thì đánh giá cho chaomao.info nhé